Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013

Hình vị và nghĩa vui vui của từ AVALAMBANA.

“Avalambana” chỉ đơn giản có tức thị “sự treo lên”. Ông Hiếu đã tháo “b” của LAMB mà ráp với “a”. Lừa cho hợp tuồng. Một danh từ có tức thị “sự treo ngược” và cũng có bốn hình vị (ava-lam-ba-na) ứng với bốn chữ Ô lam bà nã hay Ô lam bà noa. Hợp tích mà thôi. Tức thị sự rủ xuống.

Stchoupak. C. “Ava” là một tiền động từ chỉ hướng từ trên xuống dưới; LAMB là căn tố chỉ nghĩa “treo”. Nitti. Bị tháo ra từ “ana”. Các nguồn khác nhau trên mạng cũng đều dịch như thế. “Lam”.

Cứ theo kiểu ông Hiếu “tháo rời” danh từ Sanskrit “avalambana” thành 4 đơn vị là “ava”. “Ba” và “na” chỉ là những âm tiết vô nghĩa chứ không phải là hình vị vì hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa. L. 1999) thì cho: “hanging on. Cái được ông Hiếu “tháo” ra thành “ava” thì có hai âm tiết là “a” và “va” vì vậy cái tên “âm tiết” (tiếng) không phù hợp để gọi “ava”. Còn nếu gọi “ava” là “hình vị” - đây đúng là một hình vị - thì “lam”.

A. Còn “ana” là hậu tố chỉ hành động do tiền động từ và căn tố mô tả. Chính yếu là “hanging down”.

Dictionnaire sanskrit-franais của N. Thì “avalambana” có đến 5 tiếng: a - va - lam - ba - na. Giá đỡ [vật đỡ]; sự dừng lại. “Lamb” và “ana”. Ông còn viết tiếp: “Trong The Concise Oxford Dictionary of World Religions (1997) của John Bowker và những tự điển tiếng Phạn mà chúng tôi tham khảo đều ghi nhận avalambana có tức thị sự treo ngược”. Tức “treo ngược” thì đó chẳng qua chỉ là suy diễn.

Nếu là âm tiết. Từ “avalambana” chỉ có 3 hình vị mà thôi và đó là “ava”. Sự bám lấy; sự chống vào; sự rủ xuống). Gọi một cách bình dân là “tiếng”. Âm tiết là đơn vị phát âm ngắn nhất trong chuỗi lời nói. “Ba” và “na” thì ta không thể cấp cho chúng một cái tên chung nào được biết đến trong ngữ học đại cương. Bất kể treo “thuận” từ đầu đến chân hoặc treo “ngược” từ chân đến đầu.

Renou (Paris. A Sanskrit English Dictionary của M. Trong The Concise Oxford Dictionary of World Religions (1997) của John Bowker và những từ điển tiếng Phạn mà chúng tôi tham khảo đều ghi nhận avalambana có tức thị sự treo ngược”. Thành ra cả “âm tiết” lẫn “hình vị” đều không thể là cái tên chung cho 4 thứ phụ tùng mà ông Hiếu đã tháo rời.

Liền sau đó. Còn thi thoảng có chỗ dịch thành “hanging upside down”. Như chúng tôi đã nói trên PetroTimes. Để tạo nên cái âm tiết “ba” mà ông gọi là “hình vị” nên đã phá vỡ hai hình vị đích thực là LAMB và “ana”. Point d’appui; arrêt. Clinging to; leaning against; hanging down (…)” (sự dựa vào. Org ngày 28/02/2012: “Theo chúng tôi (ông Hiếu - AC). Séjour” (sự dựa [tựa] vào; điểm tựa. 1932) thậm chí còn không cấp cái nghĩa “treo” cho danh từ “avalambana” mà chỉ ghi cho nó những nghĩa “fait de s’appuyer sur; support.

Từ có khả năng nhất để phiên âm thành Ô lam bà nã 乌 蓝 婆 拿 và Ô lam bà noa 烏藍婆拏 chính là avalambana (अवलम्बन). Thực ra. Nơi ở lại). Học giả An Chi : Chúng tôi còn sợ ông Vương Trung Hiếu không nắm được “âm tiết” là gì nữa ấy chứ! Xin nhắc lại nguyên văn của ông ấy trong bài “Tìm hiểu thuật ngữ Vu Lan bồn” thuộc phần “tiếng nói” của vanchuongviet.

Monier - Williams (Reprint: Delhi. Và bất kể là treo con gì hay vật chi. L.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét