Du khách tham quan Bảo tàng Phụ nữ. Ảnh: TRẦN HẢI Trên website chính thức của Bộ Quốc phòng, biểu mục “hệ thống bảo tàng” cho biết có tới 10/23 bảo tàng thuộc Bộ này nằm trên địa bàn Thủ đô Hà Nội và rất đa dạng về thể loại. Từ bảo tàng ở tầm vĩ mô như Viện bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam đến dạng bảo tàng chuyên biệt như Bảo tàng Chiến thắng B52 hay chuyên ngành như: Bảo tàng Thông tin liên lạc, Bảo tàng Hậu cần, Bảo tàng Phòng không Không quân... Bộ Công an có bảo tàng cho ngành của mình trên đường Trần Bình Trọng. Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam cũng có một hệ thống gồm năm bảo tàng thiên nhiên thì ba trong số đó nằm trên địa bàn Hà Nội: Bảo tàng Thiên nhiên, Bảo tàng Địa chất, Bảo tàng Tài nguyên rừng. Hội Nhà văn Việt Nam cũng đã triển khai bảo tàng của giới văn chương Việt Nam từ cả chục năm trước, tại một địa điểm thuộc khu vực Hồ Tây... Riêng ở Thủ đô, quy mô nhất hẳn nhiên là các bảo tàng cấp quốc gia như Lịch sử, Dân tộc học, Phụ nữ, Mỹ thuật... Và cả cấp địa phương như Bảo tàng Hà Nội. Như vậy, có thể nói rằng hệ thống bảo tàng ở Hà Nội nói riêng có số lượng lớn, đa dạng về thể loại và phong phú về nội dung. Tham chiếu ra quy mô toàn quốc, sẽ dễ dàng nhận ra là số lượng bảo tàng từ quy mô toàn quốc đến cấp tỉnh, ngành, đơn vị đặc chủng, có khi là đến cả cấp xã (Thí dụ: Hà Nội có Bảo tàng gốm xã Kim Lan, huyện Gia Lâm) chưa tính đến các bảo tàng tư nhân... Dễ có tới con số hàng trăm. Trong văn bản “55 năm - sự nghiệp bảo tồn bảo tàng” của Cục Di sản, xuất bản năm 2002 có đoạn: “Đã có lúc khẩu hiệu “xã xã Bảo tàng” được các địa phương đón nhận và thực hiện sôi nổi với đủ mọi hình thức. Nhiều huyện cũng tập trung công sức để xây dựng Bảo tàng huyện”. Rất nhiều lý do ra đời xoay quanh trục quan điểm: ghi nhớ lịch sử, bảo tồn văn hóa, phát huy giá trị di sản, cùng những mục đích cao đẹp như cung cấp thông tin cho nhân dân, giáo dục thế hệ trẻ khắc sâu công ơn người đi trước... Và chúng đã trở thành nền tảng của mạng lưới bảo tàng chằng chịt trên khắp đất nước ta. Hiệu ứng phong trào đã được phát huy. Và nó dường như đã làm cho người ta thỏa mãn với danh mục bảo tàng ngày một dài dằng dặc. Nhưng sau thỏa mãn đó là gì? Người ta có biết gìn giữ và phát huy giá trị của từng cơ sở ấy để nó xứng đáng với danh vị “bảo tàng” hay không mới là điều đáng bàn. Hãy lấy thí dụ từ Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Tọa lạc trên khu đất vàng của Thủ đô với diện tích xấp xỉ 4.700m2, Bảo tàng sở hữu tới ba nghìn hiện vật trưng bày và 17 nghìn hiện vật lưu trữ trong kho. Đây đáng lẽ ra phải là một trong những bảo tàng thu hút đông đảo khách tham quan nhất cả nước, có một phương án trưng bày giàu tính mỹ thuật nhất, có được các triển lãm chuyên đề hấp dẫn nhất... Nhưng thực tế, mật độ treo tranh dày đặc trên tường, thông tin về tác phẩm sơ sài, phòng nào cũng na ná phòng nào, thiếu điểm nhấn hấp dẫn. Theo ông Vi Kiến Thành - Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, thường ở bảo tàng các nước, một danh họa có phòng riêng, khu trưng bày riêng. Nhưng ở ta, danh họa cỡ ông Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân “cũng chỉ được một mảng tường”... Lượng khách tham quan trong năm 2012 là 60 nghìn lượt, đem lại tổng thu hơn một tỷ đồng. Số tiền này có lẽ là quá nhỏ so với số tiền Nhà nước hàng năm rót vào để duy trì bảo tàng cũng như so với tiềm năng sinh lời từ vị trí vàng và nguồn hiện vật quý giá của nơi đây. Chẳng thế mà ông Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trong chuyến thăm bảo tàng đầu năm nay đã nhấn mạnh: “Hãy thực tế hơn đi”, khi đề nghị bảo tàng tạm dừng đề án xin mở rộng để tập trung khai thác “một cách hữu hiệu mọi nguồn lực mà mình đang có”. Và hẳn dư luận còn chưa quên vụ ồn ào về sự lãng phí ở Bảo tàng Hà Nội, hàng ngàn tỷ đồng mà vừa xây xong đã xuống cấp, vỏ đẹp mà ruột rỗng. Sau cái “oai” là có bảo tàng to đẹp, khai trương đúng dịp Đại lễ nghìn năm Thăng Long là biết bao tiếng thở dài tiếc và buồn về sự lãng phí. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam thu hút hàng trăm nghìn lượt khách mỗi năm. Bên cạnh kiến trúc và thiết kế không gian cảnh quan, hệ thống trưng bày do chuyên gia người Pháp giúp đỡ ngay từ đầu, đơn vị này cũng được họ tư vấn về chiến lược phát triển dựa trên hai nguyên tắc. Thứ nhất là nền tảng nghiên cứu và cách thức công bố thành quả nghiên cứu (các triển lãm chuyên đề). Thứ hai là các chương trình giáo dục dành cho cộng đồng, đặc biệt chú trọng đến giới trẻ. Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam cũng phải mất bốn năm “làm mới mình” với bàn tay của kiến trúc sư nước ngoài. Một trong những triển lãm chuyên đề hấp dẫn nhất năm 2012: Đạo Mẫu: Tâm - Đẹp - Vui, cũng là nhờ một nhóm chuyên gia bảo tàng của Mỹ kiến tạo từ nội dung, cách thức sưu tầm và thiết kế. Bảo tàng Hồ Chí Minh đẹp, hấp dẫn cũng phải nhờ bàn tay kiến trúc, thiết kế trưng bày của chuyên gia Liên Xô. Vậy là, mấy điểm sáng hiếm hoi ấy đều có điểm chung là phải có bàn tay chuyên gia nước ngoài can thiệp. Còn bao mảng màu mờ nhạt trên khắp cả nước thì sao? Những bảo tàng tỉnh, huyện, ngành,... Thì được bao nhiêu bước chân khách tham quan ghé qua mỗi ngày? Chúng thực có giá trị chút nào với đời sống tinh thần của cộng đồng hay chỉ lặng lẽ tồn tại hoài phí bên lề dòng chảy cuộc sống hối hả, tất bật của dân chúng? Thực trạng tréo ngoe ấy gợi ra nhiều dấu hỏi: hóa ra chỉ khi có “bàn tay” của người nước ngoài thì bảo tàng của ta mới tốt, mới hay? Vậy hàng ngàn cán bộ bảo tàng vẫn hưởng lương Nhà nước đều đặn, họ làm gì ở đó mỗi ngày? Hàng ngàn tỷ đồng chi cho việc vận hành hệ thống bảo tàng lớn nhỏ cả nước mỗi năm nhưng không tương xứng với hiệu quả văn hóa, tinh thần mà hệ thống ấy đem lại cho toàn xã hội... CHI MAI |
Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013
Bảo tàng - Lượng nhiều, chất ít!
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét